(GDTĐ) – Họ không chỉ giỏi việc ở trường, ở lớp mà còn đảm đang vun vén hạnh phúc gia đình, là hậu phương vững chắc cho chồng con yên tâm công tác phấn đấu.
– Hoa nghề giáo: Những dấu lặng vô giá
Cô Hoàng Thị Tuyền trao đổi bài với học sinh
35 năm gắn bó với nghề
Ra trường từ năm 1986, đến nay cô Hoàng Thị Tuyền – Giáo viên Trường THCS Pác Pó (Hà Quảng – Cao Bằng) đã có hơn 35 năm gắn bó với các em học sinh dân tộc thiểu số thuộc vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.
Cô Tuyền vẫn còn nhớ như in lần vận động được cả hai vợ chồng người dân tộc đi học. Cô kể: Do ảnh hưởng của phong tục tập quán, một bộ phận dân tộc ít người như: Mông, Dao,… có phong tục lấy vợ, lấy chồng sớm. Lúc bấy giờ có học sinh lớp 7 người dân tộc Mông bỏ học về nhà lấy chồng, cô đã phải lặn lội hàng chục cây số, đến từng nhà rất nhiều lần để động viên các em đi học, sau bao nhiêu vất vả, cố gắng, cuối cùng cô đã vận động được cả 2 vợ chồng tiếp tục đi học. Cho đến giờ hai vợ chồng học sinh đó vẫn đến thăm cô, tâm sự với cô về cuộc sống.
Thỉnh thoảng phụ huynh hoặc học sinh nhớ cô giáo đến tặng một vài củ sắn, củ khoai, vài cân ngô hay mấy bông hoa rừng cùng những lời chúc vẫn còn bẽn lẽn, vụng về, những tình cảm thiêng liêng, rất đỗi mộc mạc, giản dị và chân thành. Cô Tuyền bộc bạch: “Đôi khi hạnh phúc của người thầy chỉ cần như thế là đủ”.
Cô Phạm Thị Xuân cùng các em học sinh Trường tiểu học Nậm Cần trong giờ học môn tiếng Việt
Nỗi lòng GV vùng khó
Cô giáo Phạm Thị Xuân – Trường Tiểu học xã Nậm Cần, (Tân Uyên – Lai Châu) người đã có 35 năm trong ngành giáo dục và 25 năm trực tiếp làm công tác giảng dạy học sinh tiểu học tại những địa bàn thuộc vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn với 100% học sinh là con em các dân tộc thiểu số, phần lớn gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Trung tâm trường cách xa huyện lị, đường sá đi lại hiểm trở, khó khăn, lớp cô đảm nhiệm lại là một lớp có nhiều đối tượng học sinh.
Do đó để các em không bỏ học, cô đã không quản ngại khó khăn, vất vả bám trường, bám lớp, đầu tư nhiều thời gian để nắm bắt tâm tư, tình cảm của các em, từ đó động viên, khuyến khích các em hăng say học tập và đến lớp đầy đủ. Cô đã dạy các em từng mặt chữ, từng con số trong hoàn cảnh còn khó khăn, thiếu thốn đủ bề, những bài giảng được soạn bên những bữa ăn chỉ có rau rừng và được soạn tranh thủ khi còn ánh nắng mặt trời …Thế nhưng cô đã đem hết sức mình để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó.
Giờ đây, cô vừa là người mẹ vừa là người bạn của các em học sinh và cô đã trở thành thành viên thân thuộc của bản làng Nậm Cần. Cô Xuân tâm sự: “Tôi cảm thấy hạnh phúc khi thấy con chữ đã về với các em, về với bản làng. Thấy các em nói thạo tiếng Việt rồi khôn lớn, trưởng thành mà lòng tôi mừng vui khôn xiết”.
PGS.TS Nguyễn Thị Chung Toàn: NCKH là một công việc âm thầm, lặng lẽ
Thầm lặng cống hiến
Là người vừa trực tiếp giảng dạy, vừa nghiên cứu khoa học từ những năm đầu của thập niên 80, PGS. TS Trần Thị Chung Toàn – Trưởng khoa tiếng Nhật Trường Đại học Hà Nội – Người vừa được nhận giải thưởng tài năng sáng tạo nữ Tổng liên đoàn năm 2013 với công trình NCKH “Xây dựng tư liệu học chữ Hán trong tiếng Nhật cho người Việt trên cơ sở tận dụng tri thức Hán – Việt”.
Cô Toàn bộc bạch: NCKH là một công việc âm thầm, lặng lẽ, làm không vì khen thưởng và không vì danh vọng. Những người làm NCKH chủ yếu phải tự nghiên cứu, mày mò như những con ong chăm chỉ tích lũy kiến thức cho xã hội, may mắn lắm được giải thưởng này, giải thưởng kia thì mới có người biết và quan tâm đến. Thế nhưng, đó lại là một niềm hạnh phúc rất riêng, rất thầm lặng, giúp họ có thể vượt qua các nghiên cứu đầy thử thách.
Hải Phong
Bình luận bài viết